Npl, 05/2023
“Đàm phán là hy sinh cái mình có để đổi lấy cái mình mong muốn sở hữu” – sưu tầm
I – Khủng khoảng tài chính – ảnh hưởng xã hội từ hiệu ứng đầu cơ, bong bóng tài sản
Bản chất các cú sốc biến đổi chuyển hóa qua các hành vi và cơn sóng đầu cơ – có thể chứng kiến qua cú sốc tại Mỹ thập niên 20 với sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực ô tô, đường cao tốc và điện khí hóa, cùng với điện thoại – như ở Việt Nam hiện nay với đầu tư công vào các công trình xã hội, quá trình cơ giới hóa giao thông và năng lượng; hay như ở Nhật thập niên 80 là quá trình tự do hóa tài chính và đồng Yên tăng giá, tương tự ở các nước Bắc Âu sau đó vào thập niên 90; cú sốc ở các con rồng, con hổ châu Á vào thập niên 90 là hiện tượng bong bóng tài sản ở Nhật nổ tung và sự định giá đồng Yên quá cao…
Nếu cú sốc đủ lớn và có sức lan tỏa mạnh, nhiều cơ hội được dự đoán sinh lợi cao có thể xảy ra trong ít nhất một lĩnh vực nhạy cảm nào đó ảnh hưởng tới thước đo của nền kinh tế: GDP. Sự bùng nổ này theo như trong mô hình của giáo sư Hyman Minsky khi lý giải các cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, Anh và các nền kinh tế khác, được làm rõ thêm thông qua hiệu ứng của việc mở rộng tín dụng. Khi các ngân hàng phát triển, họ mở rộng nguồn cung tín dụng và các khoản nợ của mình. Bên cạnh việc các ngân hàng “cũ” [đã phát triển hiện hữu trong một thời gian, hoặc đã trở nên ổn định trong hoạt động] mở rộng tín dụng, các ngân hàng “mới” thành lập tham gia thị trường sẽ có nỗ lực nhằm tăng thị phần có thể dẫn tới việc tăng trưởng tín dụng và nguồn tiền mạnh khiến các ngân hàng “cũ” khó có thể chấp nhận việc thị phần bị sụt giảm, chưa kể tới các hình thức tín dụng khác.
Cụm từ “cơn điên loạn” được các nhà kinh tế nhấn mạnh tới sự bất hợp lý, còn “bong bóng” báo hiệu giá trị cuối cùng rồi sẽ “vỡ tung”, họ, sử dụng thuật ngữ “bong bóng” ám chỉ tới bất cứ một sự chênh lệch xuất hiện nào đó về giá tài sản, chứng khoán hay hàng hóa mà không thể lý giải bằng “các nguyên tắc cơ bản”, các biến đổi về giá trên các nguyên tắc cơ bản này là “sự nhiễu tạp”.
Vào thế kỷ 20, hầu hết các cơn điên loạn và các bong bóng tập trung vào bất động sản và cổ phiếu.
Đồng quan điểm, Alvin Hansen – nhà kinh tế người Mỹ, đã đưa ra những lý giải có tính thuyết phục về mô hình của Minsky: “các lý thuyết dựa trên tính bất ổn của thị trường, đầu cơ hàng hóa, “sự buôn bán quá khả năng vốn”, sự dư thừa tín dụng ngân hàng, tâm lý của nhà đầu tư và người bán đều phù hợp với giai đoạn “trọng thương” của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Thế kỷ 19 đã trôi qua, những “viên thuyền trưởng của ngành công nghiệp”… trở thành phương tiện chính cho các quỹ tìm kiếm lợi nhuận thông qua các hình thức tiết kiệm và đầu tư.”
Dòng tiền từ vốn nước ngoài đổ vào dẫn tới giá trị đồng tiền của các quốc gia nhập khẩu [nhận vốn] tăng đột ngột, dẫn tới mức tăng giao thương và thâm hụt tài khoản vãng lai, cho dù nhiều hay ít hơn mức tăng thặng dư tài khoản vốn; rõ ràng, tại một thời điểm trong tương lai, dòng tiền vay vào từ các khoản vay mới có xu hướng tụt giảm hơn khoản lãi phải trả cho các khoản vay cũ, và, tại thời điểm đó, giá trị hối đoái của đồng tiền sẽ giảm; dòng vốn vào giảm có nghĩa là các quốc gia này cần giao thương và tăng thặng dư tài khoản vãng lai cao hơn để có tiền trả lãi cho chủ nợ nước ngoài; tuy nhiên, hầu hết họ gần như không trả được nợ khi người cho vay dừng việc tái cấp các khoản vay mới.
Mở rộng tín dụng và tiền tệ trở thành mối nguy cơ tiềm ẩn của các cơn điên loạn về đầu cơ. Tuy rằng quy trình mở rộng tiền tệ và tín dụng hầu hết không trực tiếp dẫn tới các cơn điên loạn, những mỗi một cơn bão điên loạn xảy ra đều có mối liên hệ chặt chẽ với sự mở rộng tín dụng. Các cơn điện loạn liên quan tới tính “bất hợp lý” nói chung hay tâm lý đám đông – cho dù, mối quan hệ giữa các cá nhân hợp lý và một nhóm các cá nhân phi lý có thể rất phức tạp. Một số giả định được đưa ra để lý giải cho điều này: giả định về tâm lý đám đông, một loại “tư tưởng lợi ích nhóm” khi tất cả những người tham gia thị trường thay đổi quan điểm cùng một lúc và hành động có tính “bầy đàn”. Giả định khác, các cá nhân khác nhau thay đổi quan điểm của họ về sự phát triển thị trường ở những thời kỳ khác nhau; đa số họ bắt đầu [với lý do] rất hợp lý nhưng ngay sau đó, càng có nhiều người mất khả năng liên hệ với thực tế, ban đầu từ từ nhưng càng lúc sau càng nhanh hơn rất nhiều khi bắt đầu. Khả năng thứ 3 là tính hợp lý của các nhóm mua và bán, nhà đầu tư và đầu cơ khác nhau, khi số lượng các cá nhân trong các nhóm này không thể chống lại được sự cuồng loạn khi giá tài sản đột biến tăng. Cuối cùng, tính bất hợp lý có thể tồn tại bởi các nhà đầu tư và cá nhân khi họ lựa chọn mô hình kinh tế sai, hoặc giả không đánh giá được chính xác một số nguồn thông tin, nên đã “ỉm” đi – “cố tình chôn dấu” những thông tin không phù hợp với mô hình mà họ đã “lỡ” lựa chọn…
II – Khủng hoảng tại Việt Nam
Kể từ sau chiến tranh và thống nhất đất nước, trong 40 năm, Việt Nam đã gặp và vượt qua 3 cuộc khủng hoảng, và cũng đã cả 3 lần chuyển biến vị thế. Có thể nói, mỗi lần vượt qua được khủng hoảng là mỗi lần Việt Nam không chỉ vượt khủng hoảng mà còn vượt được lên chính vị thế của mình. Sau cuộc khủng hoảng thứ nhất, Việt Nam đã chuyển từ nhóm nước gồm vài ba chục nước có thu nhập thấp nhất thế giới (kém phát triển) sang nhóm nước đang phát triển (có thu nhập thấp); sau cuộc khủng hoảng thứ hai, Việt Nam đã chuyển từ một nước mở rộng cửa trong nước sang mở rộng cửa hội nhập với thế giới; sau cuộc khủng hoảng thứ ba này, Việt Nam đã chuyển sang nhóm nước có thu nhập trung bình;
cụ thể:
Cuộc khủng hoảng thứ nhất tiềm ẩn từ cuối thập kỷ 70, bùng phát trong thập kỷ 80, kéo dài đến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Cuộc khủng hoảng này biểu hiện trên 4 mặt của “tứ giác mục tiêu” – đều bị “đè” xuống, gồm: Tăng trưởng kinh tế thấp, thậm chí, có những năm còn bị “âm”. Bình quân thời kỳ 1977-1980, GDP chỉ tăng 0,4%/năm (trong đó năm 1979 giảm 2%, năm 1980 giảm 1,4%) khiến cho GDP bình quân đầu người bị sụt giảm (giảm 1,87%/năm). Lạm phát phi mã và kéo dài, diễn ra từ cuối những năm 70, đầu những năm 80 khi chênh lệch giữa giá trong và ngoài ngày một lớn. Tính phi thị trường càng rõ khi bội chi ngân sách đã phải in tiền; lại gặp sai lầm khi cải cách “giá-lương-tiền” năm 1985, đã làm cho siêu lạm phát xuất hiện, lên tới 774,7% năm 1986 và kéo dài với mức 3, rồi 2 chữ số cho đến đầu thập kỷ 90. Cán cân thanh toán bị mất cân đối nghiêm trọng, khi sản xuất trong nước chỉ đáp ứng 80-90% sử dụng trong nước, chẳng những không có tích lũy trong nước mà còn không đủ tiêu dùng – tức là toàn bộ quá trình tích lũy và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào viện trợ và vay nợ nước ngoài, trong khi, tỷ lệ thất nghiệp cao, lên đến 12,7% tổng số lao động; do quy mô sản xuất thấp và giảm, dân số tăng nhanh, nên GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái chỉ có USD 86, nằm trong số nước có GDP bình quân đầu người thấp nhất thế giới.
Nhờ đổi mới, sản xuất lương thực đạt được kết quả thần kỳ, dầu thô khai thác và xuất khẩu,… Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, bước vào giai đoạn ổn định và phát triển. Tăng trưởng kinh tế của thời kỳ 1992-1997 đã cao gấp hơn hai lần của thời kỳ 1977-1991 (8,77%/năm so với 4,07%/năm). Việt Nam đã chuyển vị thế từ nước kém phát triển sang nhóm nước đang phát triển, từ chỗ bị bao vây, cấm vận sang bước đầu mở cửa hội nhập, tiếp nhận ODA (từ 1993 đến 1997, lượng vốn ODA cam kết là USD 10,8 tỷ, giải ngân gần USD 3,85 tỷ), FDI (từ 1991-1996 thu hút USD 27,8 tỷ vốn đăng ký, bình quân 1 năm trên USD 4,63 tỷ, cao gấp 8,7 lần mức bình quân trong 3 năm trước đó, vốn thực hiện đạt trên USD 9,2 tỷ); lượng kiều hối gửi về nước từ 1993 đến 1997 đạt gần USD 1,55 tỷ,…
Cuộc khủng hoảng và chuyển vị thế lần thứ hai, khi Việt Nam đang trên đà phát triển và mở cửa hội nhập thì xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu từ Thái Lan lan sang Hàn Quốc, Indonesia,… Do tác động của cuộc khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đang ở mức cao trong thời kỳ 1995-1997, thì đến năm 1998 chỉ tăng 5,76%, năm 1999 chỉ tăng 4,77%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký, nếu năm 1995 đạt trên USD 6,9 tỷ, năm 1996 đạt gần USD 10,2 tỷ, thì năm 1997 còn gần USD 5,6 tỷ, năm 1998 còn gần USD 5,1 tỷ, năm 1999 còn gần USD 2,6 tỷ.
Lạm phát nếu năm 1996 ở mức 4,5%, năm 1997 ở mức 3,6%, thì năm 1998 lên mức 9,2%. Giá USD nếu năm 1995 giảm 0,6%, 1996 tăng 1,2%, thì năm 1997 tăng 14,2%, năm 1998 tăng 9,6%,… Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm 1996 ở mức 33,2%, năm 1997 ở mức 26,6%, đến năm 1998 chỉ còn 1,9%. Nhập khẩu nếu năm 1996 còn tăng 36,6%, thì năm 1997 chỉ còn tăng 4% và năm 1998 giảm 0,8%, năm 1999 chỉ tăng 2,1%. GDP bình quân đầu người năm 2007 tính bằng USD đã đạt USD 843, cao gấp gần 2,3 lần năm 1999. Bình quân năm FDI nếu thời kỳ 1998 – 1999 vốn đăng ký chỉ có trên USD 3,8 tỷ thì thời kỳ 2000 – 2008 đã đạt gần USD 12,9 tỷ và thực hiện đạt USD 4 tỷ; ODA cam kết đạt gần USD 3,5 tỷ, giải ngân đạt USD 1,75 tỷ. Dự trữ ngoại hối tăng khá: nếu cuối năm 2002 đạt chưa được USD 3,7 tỷ, thì đến cuối năm 2007 đã đạt trên USD 21 tỷ. Vị thế của Việt Nam đã chuyển sang mở cửa hội nhập đầy đủ với thế giới, ký hiệp định thương mại Việt-Mỹ, gia nhập WTO…
Cuộc khủng hoảng thứ ba đến từ nước Mỹ, tiềm ẩn từ cuối năm 2007, bùng phát vào cuối 2008, bắt đầu từ khủng hoảng nhà đất, lan sang hệ thống tài chính, sang kinh tế thực, sang lĩnh vực lao động việc làm, lan sang các nước trên thế giới. Cuộc khủng hoảng này xảy ra trong điều kiện Việt Nam vừa mới gia nhập WTO từ đầu năm 2007. Ngay lập tức, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2008 giảm xuống còn 6,31%, năm 2009 còn 5,32%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh về vốn đăng ký (từ USD 71,7 tỷ năm 2008 còn USD 21,5 tỷ năm 2009) và vốn thực hiện (từ USD 11,5 tỷ xuống USD 10 tỷ). Lượng khách quốc tế giảm từ trên 4,2 triệu lượt người xuống còn trên 3,7 triệu lượt người. Lượng kiều hối giảm từ USD 7,2 tỷ xuống còn gần USD 6,3 tỷ, vốn đầu tư gián tiếp sụt giảm mạnh,… Tốc độ tăng giá tiêu dùng cao trong năm 2007 (12,63%), bùng phát trong năm 2008 đã tăng tới 19,89% (tính bình quân năm đã tăng tới 22,97%). Giá USD nếu năm 2007 giảm nhẹ, thì năm 2008 tăng 6,31% và năm 2009 đã tăng 10,7%. Nhập siêu năm 2007 lên trên 14,2%, năm 2008 đã lên đến trên USD 18 tỷ và năm 2009 cũng gần USD 12,9 tỷ.
Đối phó với tình huống khủng hoảng lần 3, Việt Nam đã linh hoạt chuyển đổi mục tiêu ưu tiên; áp dụng các biện pháp phù hợp; làm tốt công tác thông tin, phân tích kinh tế và dự báo; nhờ vậy, Việt Nam đã không bị rơi vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới, đã đạt được những kết quả tích cực từ giữa năm 2009 đến nay, cụ thể:
- Tăng trưởng kinh tế sau khi rơi xuống đáy (tăng 3,1%) trong quý 1/2009, từ quý II đã thoát đáy vượt dốc đi lên để cả năm đạt 5,32%, quý 1 năm nay tăng trưởng kinh tế đã cao lên một cách rõ ràng. Biểu hiện tổng quát nhất là tăng trưởng GDP đạt 5,83%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 3,1% của năm trước.
- Thứ hai, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giải ngân 3 tháng đó đạt USD 2,5 tỷ, trong đó tháng 3 đạt kỷ lục tháng (USD 1,4 tỷ) báo hiệu cả năm sẽ tăng so với năm trước (USD 10 tỷ), thậm chí vượt kỷ lục (USD 12 tỷ) của năm 2008.
- Thứ ba, tiêu thụ trong nước – biểu hiện chủ yếu là tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng – sau khi loại trừ yếu tố tăng giá đó tăng rất cao (tăng 14,5%, cao gấp hơn 2 lần tốc độ tăng 6,5% của cùng kỳ năm trước) và trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế.
- Thứ tư, lượng khách quốc tế tăng khá, báo hiệu cả năm sẽ vượt qua kỷ lục của năm 2008, đưa đến một lượng ngoại tệ từ du lịch tăng lên, cùng với sự tăng lên của kiều hối, ODA, đầu tư gián tiếp sẽ giảm sức ép tăng tỷ giá.
- Thứ năm, thay vì tình trạng mất và thiếu việc làm gia tăng đáng lo ngại của năm trước đó, thì thời điểm này nhiều khu công nghiệp, khu đô thị lớn đang gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động. Đây là yếu tố quan trọng tác động về hai mặt: một mặt đóng góp vào tăng trưởng kinh tế do góp phần làm tăng sức mua có khả năng thanh toán; mặt khác góp phần giảm bớt khó khăn về đời sống của người lao động.
Mặc dù còn những hạn chế, bất cập và cả năm khó đạt mục tiêu về nhập siêu, lạm phát, nhưng cũng có thể nói đến Việt Nam đã cơ bản thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Dựa trên quan sát cả những khủng hoảng kinh tế diễn ra tại Việt Nam thời gian qua, các chuyên gia kinh tế nhận ra rằng, khi chịu tác động lớn từ các biến động bên ngoài, GDP không bị suy thoái ngay, mà thường tăng chậm lại trong những năm sau đó…
Điều đáng lo ngại là sau những cuộc khủng hoảng, Việt Nam phải mất rất nhiều năm mới vực nền kinh tế lên được và mức tăng trưởng rất ì ạch, chỉ lên được từ 1-2%/năm. Chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung dự báo, với đà phát triển như hiện nay, năm 2022 nếu tăng trưởng tốt, GDP cao nhất cũng chỉ có thể đạt 5%/năm. Hiện tại, nền kinh tế đang gặp thách thức khi tiêu thụ trong nước bị giảm sâu, trong khi đầu vào của sản xuất kinh doanh như xăng dầu, sắt thép, than đá, phân bón, tôm cá nguyên liệu,… đều tăng chóng mặt, dễ hình dung về nguy cơ lạm phát đang rình rập… Với thực tế như vậy, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giới chuyên môn cho rằng, cần có giải pháp quyết liệt, phải có gói kích cầu tiêu dùng và hỗ trợ sản xuất.
Trong khi đó, khảo sát của VCCI vào tháng 9/2021 cho thấy, các gói hỗ trợ lớn trong thời gian dịch Covid bao gồm: Chính sách tài khóa với trọng tâm là gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất; Chính sách tiền tệ với trọng tâm là cơ cấu lại nợ, miễn, giảm lãi suất, hỗ trợ tín dụng; Chính sách hỗ trợ bảo đảm an sinh xã hội… đa số vẫn mang tính hình thức, kém hiệu quả hoặc thậm chí không khả thi, kể cả chính sách giảm thuế thu nhập cho DN không giúp được gì cho những DN bị ảnh hưởng nặng, thua lỗ.
Theo khảo sát của Bộ KH-ĐT, tỷ lệ DN tiếp cận được với một số chính sách hỗ trợ về thuế, tín dụng, cho vay ưu đãi còn thấp do thủ tục phức tạp, các điều kiện chưa phù hợp. Các mâu thuẫn còn tồn tại giữa các luật điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn chưa giải quyết triệt để, gây khó khăn cho DN.
Tuy, số liệu thống kê cho thấy tổng nợ công trên GDP của Việt Nam đang ở mức thấp, vì vậy cần xem xét mở rộng quy mô các gói hỗ trợ cho DN. “Với GDP ước tính năm 2020 của Việt Nam là gần 6,3 triệu tỷ đồng, các gói hỗ trợ có thể mở rộng tới 4%, tương đương 250.000 tỷ“, Chủ tịch VCCI đề xuất. Tiếp theo là giảm thuế thu nhập DN, thuế VAT, tiền thuê đất ở mức 50%, thay vì 30% như hiện nay trong 2021-2022. Nếu không có những gói hỗ trợ đủ mạnh, thì tăng trưởng kinh tế nguy cơ sẽ lặp lại quy luật của những lần khủng hoảng trước, đó là tăng trưởng rất ì ạch.
III – Tính chu kỳ và phát triển kinh tế xã hội
Kinh tế Việt Nam, trong suốt 40 năm qua có hiện tượng suy thoái kinh tế rơi vào những năm cuối cùng của thập nhiên. Chu kỳ khủng hoảng 10 năm được các chuyên gia kinh tế giải thích theo hướng chu kỳ của sự hưng phấn và tâm lý đám đông: “Như các nhà kinh tế nói, 10 năm là khoảng thời gian sự lãng quên có tác dụng. Sau thời kì khủng hoảng, có thể trong 5 năm đầu nhà đầu tư có tâm lý e sợ, năm thứ 6 nhà đầu tư sẽ bắt đầu bớt sợ. Sau đó, ký ức mờ nhạt đi và nhà đầu tư hưng phấn trở lại“.
Điều này có thể thấy rõ qua thị trường chứng khoán và bất động sản đã tăng mạnh trong 2-3 năm trở lại đây. Đến thời điểm này, các thị trường này bắt đầu vào thời kì điều chỉnh. Khủng hoảng kinh tế hay được nhắc tới ở Việt Nam bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 và khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008. Hai trường hợp khủng hoảng kinh tế mà Việt Nam chịu tác động đều đến từ thị trường tài chính. Theo các chuyên gia, nguyên nhân chịu tác động này đến từ việc tại thời điểm đó thực lực nền kinh tế Việt Nam yếu, ảnh hưởng “cảm cúm” bên ngoài Việt Nam không miễn dịch được.
Về phía cơ quan quản lý, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhận định ít có khả năng xảy ra khủng hoảng kinh tế theo chu kỳ từ những tín hiệu của nền kinh tế. Bộ trưởng Dũng chỉ ra tình hình tài chính, tiền tệ hiện nay vẫn trong tầm kiểm soát và được điều hành linh hoạt, thanh khoản hệ thống ngân hàng tốt, mặt bằng lãi suất ổn định. Thị trường chứng khoán đã có bước điều chỉnh sau một thời gian tăng trưởng nóng; thị trường bất động sản đã có sự hạ nhiệt sau khi Chính phủ có những chỉ đạo quyết liệt đối với các giao dịch nhà đất không đúng quy định. Người đứng đầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng đó là những tín hiệu có thể lạc quan về khả năng xảy ra khủng hoảng kinh tế.
Tuy không loại trừ khả năng xảy ra khủng hoảng kinh tế, nhưng ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thông kê cho rằng nếu có, đáy của chu kỳ khủng hoảng sẽ tới từ năm 2021 trở đi thay vì năm 2019 – 2020 như lo ngại.
Ở chiều ngược lại, TS. Lê Xuân Nghĩa nguyên Vụ trưởng Vụ Chiến lược Phát triển (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) cho rằng đã xuất hiện những dấu hiệu có thể đẩy nhanh chu kỳ khủng hoảng kinh tế. Vị chuyên gia chỉ ra xung đột thương mại, bong bóng của thị trường bất động sản, suy thoái chứng khoán cũng đã xuất hiện. Tình trạng rút vốn ở một số thị trường mới nổi có thể dẫn đến bất ổn tiền tệ ở một số nước. Trên thực tế, bất ổn từ việc rút vốn này đã xuất hiện ở châu Mỹ La tinh và một số nước khác trong khu vực Đông Nam Á. Hơn nữa, Việt Nam còn có thêm một nguy cơ tiềm ẩn khủng hoảng bắt nguồn từ hệ thống ngân hàng. Quy định yêu cầu thu cổ tức vốn nhà nước từ các doanh nghiệp, trong đó có cả 4 ngân hàng thương mại nhà nước nắm giữ vốn lớn, theo chuyên gia, sẽ ngăn cản việc tăng vốn tại các ngân hàng, làm chỉ số an toàn tín dụng bị giảm. Các ngân hàng sẽ không đáp ứng được nhu cầu tín dụng của nền kinh tế. Vị chuyên gia cho rằng cần phát hiện vấn đề và khắc phục, cải thiện từ bên trong nền kinh tế. Điều quan trọng nhất để giảm thiểu các tác động của suy thoái có tính chu kỳ đối với Việt Nam là phải đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế. Đặc biệt là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, đầu tư công và doanh nghiệp nhà nước, theo nguyên tắc sử dụng hiệu quả hơn nguồn lực tài chính có hạn vào những mục tiêu tăng trưởng của Chính phủ.
Phát biểu tại Hội thảo chuyên đề: Lành mạnh hoá thị trường tài chính và thị trường bất động sản để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, TS Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, cho rằng năm 2022, kinh tế thế giới hồi phục tốt trong 2 tháng đầu năm, khi dịch bệnh được kiểm soát và hầu hết các nước dần mở cửa nền kinh tế. Tuy nhiên, kinh tế toàn cầu đã đánh mất cơ hội phục hồi khi khủng hoảng nổ ra tại Ukraine từ cuối tháng 2 đến nay và dịch Covid-19 bùng phát trở lại.
Bên cạnh đó, đối mặt với áp lực lạm phát cao và kéo dài, nhiều nền kinh tế thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất điều hành. Trong năm 2022 đã có khoảng 305 lượt tăng lãi suất ở nhiều ngân hàng Trung ương trên thế giới để kìm lại xu hướng lạm phát tăng mạnh tại hầu hết các nước; mặt bằng lãi suất, tỷ giá tăng nhanh; giảm mạnh sức cầu thương mại, đầu tư, tiêu dùng, tăng rủi ro tài chính, rủi ro nợ tại nhiều quốc gia, nguy cơ suy thoái hiện hữu.
Tại Việt Nam, GDP năm 2022 tăng 8,02% so với năm trước, đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011 – 2022 do nền kinh tế khôi phục trở lại. Trong mức tăng của tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,36%, đóng góp 5,11%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,78%, đóng góp 38,24%; khu vực dịch vụ tăng 9,99%, đóng góp 56,65%. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều biến động mạnh và khó đoán định, tăng trưởng ở hầu hết các quốc gia và khu vực cho thấy nhiều bất ổn và thách thức, tăng trưởng kinh tế Việt Nam được đánh giá cao bởi kết quả thực tế ở các giai đoạn 6 tháng, 9 tháng và cả năm 2022 đều nằm trong và vượt dự báo tăng trưởng theo kịch bản đưa ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP. Thực tế này phần nào cho thấy hiệu quả của công tác điều hành hỗ trợ cho đà phục hồi và cải thiện khả năng chống chịu của nền kinh tế.
Theo báo cáo của Cục Đăng ký kinh doanh, trong năm 2022, tình hình hoạt động của doanh nghiệp có phần ổn định và tích cực hơn. Tính cả năm 2022, có 148,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (tăng 27,1%), với tổng số vốn đăng ký là 1.590,9 nghìn tỷ đồng (giảm 1,3%) và tổng số lao động đăng ký là 981,3 nghìn lao động (tăng 14,9%). Đáng lưu ý, sự phục hồi của ngành dịch vụ cũng thu hút gần 6.500 doanh nghiệp phân ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống thành lập mới, tăng tới 53,0% so với cùng kỳ năm 2021. Tính chung cả năm 2022, có 59,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 38,8%. Mức gia tăng nhanh của các doanh nghiệp mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động cho thấy một bộ phận đáng kể các doanh nghiệp đã nhìn nhận những cơ hội kinh doanh mới khi kinh tế Việt Nam phục hồi. Tuy nhiên, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn và số doanh nghiệp hoàn tất giải thể trong năm 2022 vẫn gia tăng. Tính chung trong năm 2022, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 73,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 34,3% so với năm 2021; gần 50,8 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 5,5%; 18,6 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 11,2%. Bình quân một tháng có 11,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Thực tế trong những tháng cuối năm 2022 cũng chứng kiến nhiều khó khăn đối với cộng đồng doanh nghiệp:
- Tác động từ chính sách thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát và nguy cơ suy thoái kinh tế tại nhiều quốc gia khiến cầu tiêu dùng và đầu tư giảm mạnh;
- Giá cả nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào giữ xu hướng tăng, làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp;
- Tiếp cận nguồn vốn khó khăn hơn khi nhiều tổ chức tín dụng đã hết “room” tăng trưởng tín dụng, trong khi diễn biến lãi suất và tỷ giá phức tạp hơn;
- Đứt gãy, gián đoạn nguồn cung nguyên vật liệu đầu vào từ nhập khẩu phục vụ sản xuất;
- Hiệu ứng “lây lan” từ khó khăn đối với doanh nghiệp bất động sản.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến thời điểm 21-12-2022, tổng phương tiện thanh toán tăng 3,85% so với cuối năm 2021 (cùng thời điểm năm 2021 tăng 8,31%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 5,99% (cùng thời điểm năm 2021 tăng 7,73%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 12,87% (cùng thời điểm năm 2021 tăng 12,53%). Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chủ động, linh hoạt ổn định thị trường tiền tệ, ứng phó xu hướng lạm phát và lãi suất tăng cao trên thế giới. Như vậy, chính sách tiền tệ mặc dù thành công trong việc kiểm soát lạm phát, bảo vệ tỷ giá nhưng rủi ro của hệ thống ngân hàng lại tăng lên. Cũng không thể không đề cập đến việc đứt gãy niềm tin trên thị trường tiền tệ và tài chính trong quý III và quý IV-2022 và cho đến nay vẫn chưa thể trở lại hoàn toàn bình thường. Lãi suất neo cao, lãi suất huy động 9 – 10%, lãi suất cho vay khoảng 13 – 15%, thậm chí cao hơn – đó là mức giá vốn đắt đỏ mà khó một doanh nghiệp nào chịu đựng được trong thời gian dài. Nợ xấu và rủi ro hệ thống sẽ tăng nhanh nếu tình trạng lãi suất cao không được giải quyết sớm.
Lạm phát cơ bản bình quân cả năm 2022 tăng 2,59%, thấp hơn mức lạm phát tổng thể. Tuy nhiên, lạm phát cơ bản liên tục tăng cao từ quý III-2022, đặc biệt trong quý IV-2022, thậm chí còn đạt các mức kỷ lục 4,47%, 4,81% và 4,99% trong các tháng 10, 11 và 12-2022 so với cùng kỳ năm 2021. Diễn biến lạm phát cơ bản trong những tháng gần đây đã vượt “thông lệ” khoảng 2% mà Việt Nam cố gắng giữ kể từ năm 2015 đến nay, cao hơn cả mức lạm phát cơ bản cuối năm 2019 – nửa đầu năm 2020 (đạt mức đỉnh 3,25% vào tháng 1-2020; trung bình năm 2020 là 2,31%). Vào những tháng cuối năm 2022, áp lực lạm phát phần nào được kiềm chế bởi những nỗ lực điều hành quyết liệt, linh hoạt và có trọng tâm của Chính phủ. Công tác tháo gỡ khó khăn đối với nguồn cung xăng dầu trong nước được đẩy nhanh. Nỗ lực ổn định tỷ giá đã giúp giảm áp lực lạm phát và kỳ vọng lạm phát. Quốc hội, Chính phủ đã quyết liệt cắt giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu trong năm 2022 theo quy trình pháp luật cho phép và sớm đánh giá, cân nhắc điều chỉnh sắc thuế này cho năm 2023.
Tuy có thể nói, kinh tế vĩ mô trong nước năm 2022 đạt được 8 kết quả tích cực. Thứ nhất, dịch bệnh về cơ bản được kiểm soát tốt, tạo điều kiện thuận lợi để hồi phục mọi hoạt động kinh tế – xã hội từ tháng 3; nhưng, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với 6 khó khăn, thách thức chính, khi môi trường quốc tế đang kém thuận lợi; một số khu vực, quốc gia, đặc biệt là các đối tác kinh tế lớn của Việt Nam có thể rơi vào suy thoái nhẹ, làm giảm lực cầu xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng và du lịch quốc tế.
IV – Kết luận
Từ yếu tố quản lý ngân sách nhà nước, lũy kế tổng thu ngân sách nhà nước năm 2022 đạt 1.784,8 nghìn tỷ đồng, bằng 126,4% dự toán năm và tăng 13,8% so với năm trước. Tổng chi ngân sách nhà nước tháng 12-2022 đạt 203,3 nghìn tỷ đồng; lũy kế năm 2022 đạt 1.562,3 nghìn tỷ đồng, bằng 87,5% dự toán năm và tăng 8,1% so với năm trước. Bội thu ngân sách nhà nước cả năm đạt 222,5 nghìn tỷ đồng – trong bối cảnh kinh tế ngày càng khó khăn… Tính chung trong năm 2022, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 73,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 34,3% so với năm 2021; gần 50,8 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 5,5%; 18,6 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 11,2%. Bình quân một tháng có 11,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường..
“Chỉ khi thủy triều rút, bạn mới biết ai đang bơi mà không mặc quần áo.” – Warren Buffet;
liệu chúng ta có còn may mắn…
</>