Npl, 202212
“Mặc dù bất bình đẳng về thu nhập từ lao động đôi khi được nhận định [một cách không đúng] là chỉ ở mức độ vừa phải nên không còn dẫn tới xung đột, nhận định này nhìn chung là hệ quả của việc so sánh nó với phân phối sở hữu tài sản, mà ở bất kỳ ở nơi đâu cũng có tính chất hết sức cực đoan…” – Tư bản thế kỷ thứ 21, Thomas Piketty.
Thu nhập lao động đóng góp vào thu nhập quốc gia: góc độ vĩ mô
Có thể nói, quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam tăng tốc trong sáu tháng vừa qua, nhờ khu vực chế tạo chế biến đứng vững và các ngành dịch vụ phục hồi mạnh mẽ. Tăng trưởng GDP được dự báo tăng mạnh từ 2,6% trong năm 2021 lên 7,5% trong năm 2022, còn lạm phát được dự báo tăng trung bình 3,8% năm nay, kinh tế tăng trưởng 5,2% trong quý 4/2021, 5,1% trong Q1/2022, và 7,7% trong Q2/2022, khi người tiêu dùng thỏa mãn những nhu cầu dồn nén trước đó và số lượt du khách quốc tế gia tăng, theo báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố gần đây. Tuy nhiên, triển vọng tích cực trên vẫn phụ thuộc vào những rủi ro đang gia tăng, đe dọa đến viễn cảnh phục hồi. Rủi ro bao gồm tăng trưởng chậm lại hoặc lạm phát đình đốn diễn ra ở những thị trường xuất khẩu chủ lực, các chuỗi cung ứng toàn cầu tiếp tục bị gián đoạn; bên cạnh đó còn có những thách thức nội tại, bao gồm thiếu hụt lao động, rủi ro lạm phát gia tăng, và rủi ro cao trong khu vực tài chính.
Nếu rủi ro lạm phát gia tăng trở thành hiện thực — khi lạm phát cơ bản tăng tốc và chỉ số giá tiêu dùng vượt quá mục tiêu 4% do Chính phủ đặt ra – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) nên sẵn sàng chuyển sang thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế áp lực lạm phát bằng cách tăng lãi suất và thắt chặt cung tiền. “Để duy trì tăng trưởng kinh tế với tốc độ mong muốn, Việt Nam cần tăng năng suất ở mức 2-3% mỗi năm.” theo lời của bà Carolyn Turk, Giám đốc WB tại Việt Nam, “Kinh nghiệm quốc tế cho thấy tăng năng suất lao động chỉ có thể đạt được bằng cách đầu tư cho hệ thống giáo dục, là một phần quan trọng của gói các đầu tư và cải cách cần thiết. Lực lượng lao động có năng lực cạnh tranh sẽ đem lại hiệu suất là yếu tố Việt Nam rất cần trong dài hạn.”
Báo cáo WB chỉ ra rằng đổi mới hệ thống giáo dục [đại học] là chìa khóa để nâng cao năng suất của Việt Nam và giúp hoàn thành mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2035 và quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Để đạt tỷ lệ nhập học đại học bình quân tương đương ở các nền kinh tế thu nhập trung bình cao, Việt Nam cần tuyển sinh 3,8 triệu sinh viên vào các cơ sở giáo dục đại học, gần gấp đôi so với chỉ tiêu tuyển sinh năm 2019. Đổi mới hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam có thể hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển, báo cáo nhận định. Chi phí cho việc học đại học ngày càng lớn và nhận định về lợi suất kinh tế giảm dần nếu theo học đại học là những lý do khiến cho nhu cầu trở nên yếu đi. Ngoài ra hệ thống còn có những bất cập khác như không cung cấp được những kỹ năng mà chủ sử dụng lao động cần có, đầu tư từ ngân sách còn thiếu, thể chế quản trị giáo dục đại học còn yếu và manh mún…
Kể từ quý 3 năm 2022, khi nền kinh tế nước ta tiếp tục chứng kiến đà phục hồi nhanh ở hầu hết các ngành kinh tế, thu nhập bình quân của lao động làm việc ở cả ba khu vực kinh tế đều chứng kiến mức tăng trưởng vượt trội so với cùng kỳ năm 2021. Minh chứng từ số liệu của Tổng cục Thống kê, thị trường lao động quý 3 năm 2022 đã có những chuyển biến tích cực; thu nhập của người lao động tiếp tục được cải thiện. Cụ thể, thu nhập bình quân tháng của người lao động quý 3 năm 2022 đạt 6,7 triệu đồng/tháng – tăng 143.000 đồng so với quý 2 và tăng đến 1,6 triệu đồng so với cùng kỳ năm ngoái. Lý giải cho việc tăng thu nhập này, theo Tổng cục Thống kê, là do trong quý năm 2022, nền kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ, thu nhập bình quân của người lao động ghi nhận mức tăng trưởng dương so với quý 1 năm 2022, trái ngược với xu hướng thường quan sát được trong các năm trước là thu nhập quý 2 thường giảm so với quý 1. Bước sang quý 3 năm 2022, thu nhập bình quân của người lao động tiếp tục có nhiều chuyển biến theo đà tăng trưởng tích cực. Đáng chú ý so với cùng kỳ năm 2019 trước khi dịch Covid-19 xuất hiện tại Việt Nam, đời sống của người lao động đã trở lại trạng thái bình thường mới và được bảo đảm hơn, với thu nhập bình quân của người lao động quý 3 năm 2022 tăng 14,5% (tương ứng tăng khoảng 854.000 đồng). Tính chung 9 tháng đầu năm, thu nhập bình quân của người lao động đạt 6,6 triệu đồng (tăng 727.000 đồng so với cùng kỳ năm ngoái), cụ thể, thu nhập bình quân của lao động làm công hưởng lương quý 3 năm 2022 là 7,6 triệu đồng – tăng 126 nghìn đồng; so với cùng kỳ năm 2021, thu nhập bình quân của lao động làm công hưởng lương quý 3 năm 2022 tăng mạnh – tăng 1,6 triệu đồng. Đặc biệt, nếu so sánh giữa các vùng, thu nhập bình quân người lao động vùng Đông Nam Bộ được cải thiện nhiều nhất. Theo đó, quý 3 năm 2022, thu nhập bình quân của lao động vùng này là 8,6 triệu đồng – tăng gần 3 triệu đồng (tăng 53,0%) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lao động làm việc tại TP Hồ Chí Minh có mức tăng thu nhập bình quân cao nhất đạt 9,2 triệu đồng; còn lao động làm việc tại Bình Dương có mức thu nhập là 8,9 triệu đồng, bên cạnh, một số tỉnh có thu nhập bình quân của người lao động tăng cao, như: Quảng Nam đạt 6,3 triệu đồng/người/tháng (tăng 440 nghìn đồng so với cùng kỳ năm ngoái); Thừa Thiên Huế đạt 6,0 triệu đồng (tăng 338 nghìn đồng); Hà Nội đạt 9 triệu đồng (tăng 278 nghìn đồng)…
Hiện nay, Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ trong những năm qua và đạt được nhiều kết quả tích cực, thu nhập của người lao động có nhiều cải thiện, tuy nhiên, mặt trái mà Việt Nam cũng phải chuẩn bị đối mặt trong thời gian tới chính là tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Hiện nay, các tổ chức quốc tế phân loại các nước khi so sánh theo cách thức khác nhau dựa trên các tiêu chí, trong đó, có tiêu chí thu nhập bình quân đầu người:
- Ngân hàng Thế giới (WB) phân biệt thu nhập dựa trên thước đo của sự thịnh vượng, bao gồm: Tỷ lệ nghèo đói và tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tổng thu nhập bình quân đầu người. Theo đó, các quốc gia được phân chia thành bốn nhóm:
- Nước thu nhập thấp có thu nhập bình quân đầu người từ USD 1025 /năm trở xuống;
- Nước có thu nhập trung bình thấp từ USD 1026 /năm – USD 4.035 /năm;
- Nước có thu nhập trung bình cao từ USD 4.036 /năm – USD 12.475 /năm;
- Nước có thu nhập cao từ USD 12.476 /năm trở lên.
Theo cách phân loại này, thế giới có 31 quốc gia thu nhập thấp, 52 quốc gia thu nhập trung bình thấp, 56 quốc gia thu nhập trung bình cao và 78 quốc gia thu nhập cao. Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp.
- Liên Hợp quốc (UN) cũng đánh giá nền kinh tế dựa theo 4 mức thu nhập bình quân đầu người:
- Nước thu nhập thấp có thu nhập bình quân đầu người dưới USD 765 /năm;
- Nước có thu nhập trung bình thấp từ USD 765 USD – USD 3.000 /năm;
- Nước có thu nhập trung bình cao từ USD 3.000 – USD 9.100 /năm;
- Nước thu nhập cao là trên USD 9.100 /năm.
Mức điều chỉnh dựa trên thay đổi theo tình hình phát triển kinh tế toàn cầu, nếu tính đến thời giá hiện nay thì ngưỡng thu nhập thấp là USD 875 /năm.
- Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra cách phân loại gồm:
- Các nước thu nhập thấp; các nước thu nhập trung bình;
- Các nước công nghiệp mới;
- Các nước thuộc OECD.
Để tránh được bẫy thu nhập trung bình,
đặc biệt khi Việt Nam đã không còn lợi thế về lao động rẻ, tài nguyên phong phú như trước đây; việc chăm lo cho giáo dục – đào tạo sẽ tạo ra một lợi thế rất lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao. Hoạt động giáo dục cần đi vào thực chất, hướng tới việc trang bị các kiến thức, kỹ năng cần thiết cho sinh viên, gắn với thực tế đời sống kinh tế, tránh tình trạng học không đi đôi với hành. Tập trung đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), giáo dục và đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát triển tài sản vô hình; tăng cường xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia theo chuẩn quốc tế; coi trọng việc bảo vệ quyền tự do sáng tạo và quyền sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh phát công nghệ thông tin – truyền thông. Các tiến bộ khoa học – công nghệ cần được áp dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp có thế mạnh và lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh để sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tối ưu hóa quy mô và năng suất, Việt Nam cần xác định ngành, lĩnh vực chủ chốt để tập trung đầu tư; đồng thời, cần xây dựng các cơ chế chính sách phù hợp nhằm động viên, khích lệ các doanh nghiệp trong các lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh bao gồm các ưu đãi về thuế, lãi suất, đất đai… đồng thời chú trọng thu hút các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân tham gia.
Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường có định hướng, vấn đề cốt lõi là xử lý đúng mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường theo nguyên tắc cơ bản là thị trường quyết định việc phân bổ nguồn lực – phân bổ nguồn lực theo quy luật của thị trường nhằm đạt hiệu quả tối ưu. Nhà nước thực hiện tốt vai trò kiến tạo và định hướng phát triển, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; tăng cường cung cấp dịch vụ công với chất lượng cao; bảo đảm môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; thực hiện điều tiết, giám sát, duy trì trật tự kỷ luật thị trường; bù đắp những hạn chế, bất cập, khắc phục khiếm khuyết của thị trường; bảo đảm công bằng xã hội và phát triển bền vững với vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước theo địng hướng chiến lược, quy hoạch, chính sách, tiêu chuẩn và quản lý, điều hành vĩ mô chủ yếu thông qua ngân sách và các công cụ tài chính, tiền tệ. Bên cạnh đó, việc phân bổ, sử dụng nguồn lực công, vốn đầu tư của Nhà nước cũng phải vận dụng cơ chế thị trường để đạt hiệu quả cần thiết.
Việt Nam cần tích cực đẩy mạnh đàm phán quốc tế, ký kết các hiệp định song phương và đa phương và tích cực khai thác có hiệu quả nguồn lực bên ngoài bao gồm nguồn vốn đầu tư, công nghệ, kiến thức và kỹ năng quản lý để tạo ra những thay đổi cơ bản trạng thái vận hành nền kinh tế. Kinh nghiệm của những nước đã vượt qua bẫy thu nhập trung bình thành công cho thấy, yếu tố cốt lõi là sự sáng tạo được phát huy tối đa nhờ có sự hỗ trợ của thể chế.
Nhà nước và toàn xã hội tập trung chăm lo sự nghiệp bảo vệ môi trường, tài nguyên, chú trọng khâu quyết định quy hoạch dự án đến siết chặt quản lý, xử lý vi phạm. Mọi đơn vị kinh tế đều tích cực chuyển đổi sang tăng trưởng xanh, phát triển xanh, cung ứng xanh để người dân được tiêu dùng xanh, gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, thiết thực nâng cao chất lượng cuộc sống con người.
Về phát triển và thực hiện công bằng xã hội, định hướng lâu dài là tiến tới hình thành xã hội có tầng lớp trung lưu chiếm đại bộ phận dân cư; tầng lớp thu nhập thấp chiếm khoảng 15 – 20% dân cư; tầng lớp giàu chỉ chiếm 10 – 15% dân cư và thu nhập của tầng lớp này chỉ gấp 5 – 7 lần mức trung bình của tầng lớp trung lưu; phát huy vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ; thực hiện tốt chính sách phân phối và phân phối lại công bằng, hiệu quả, đặc biệt là chính sách thuế, phí, dịch vụ công.
Phân tầng xã hội: khoảng cách và xu hướng
Về lý thuyết, phân tầng xã hội là một “cấu trúc tầng bậc” của xã hội. Cấu trúc “tầng bậc” là một thuộc tính phổ biến của mọi khách thể vật chất, tự nhiên, xã hội và tư duy. Bất kỳ một khác thể vật chất nào cũng có “cấu trúc tầng bậc”. Phân tầng xã hội không phải là một cấu trúc cố định, nhất thành, bất biến mà luôn vận động, biến đổi. Khoảng cách giữa các tầng có thể dãn ra hoặc thu hẹp lại tùy thuộc vào những tác động kinh tế xã hội, chính sách xã hội, thể chế chính trị, đặc điểm cộng đồng, tính cơ động xã hội của các cá nhân, nhóm xã hội: bắt nguồn từ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, hình thành các giai cấp và xung đột giai cấp đã làm xuất hiện và đẩy nhanh quá trình phân tầng xã hội; quá trình phần công lao động xã hội đưa đến sự phân tầng xã hội một cách tự nhiên; còn bản thân sự phân công lao động xã hội không phải là bất bình đẳng xã hội mà nó là cơ sở tạo nên các dạng hoạt động xã hội không được coi trọng như nhau.
Phân tầng xã hội đã từng xuất hiện và tồn tại lâu dài ở nước ta. Tuy nhiên, quy mô, tính chất và mức độ của nó là không giống nhau trong những thời kỳ lịch sử khác nhau.
Trong xã hội phong kiến trước đây, trên nền tảng của xã hội nông nghiệp, lao động thủ công, năng suất lao động thấp, tuy có sự hiện diện của phân tầng xã hội về phương diện kinh tế song mức độ chưa cao. Ngoài một số chủ ruộng đất và các bậc vua chúa, quan lại có nhiều tài sản, còn tuyệt đại đa số những người nông dân có cuộc sống tương đối ngang bằng nhau. Trong những xã hội cổ truyền, sự phân tầng về tuổi tác và nghề nghiệp nổi lên rõ rệt hơn, duy trì lâu bền và phổ biến hơn.
Từ sau năm 1954 đến trước thời kỳ đổi mới (1986), miền Bắc và sau đó là cả nước (kể từ năm 1975) chúng ta đã nhanh chóng xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất trên phạm vi toàn xã hội. Mặc dù nhận thức về chủ nghĩa xã hội, quá trình xây dựng xã hội còn bất cập, nhưng đã xây dựng được một xã hội có mặt bằng khá đồng đều. Song chế độ quan liêu bao cấp mà đặc trưng chủ yếu là “chủ nghĩa bình quân” chia đều sự nghèo khổ vừa cào bằng xã hội vừa tạo ra những khía cạnh nhất định của sự mất bình đẳng. Chế độ hành chính quan liêu bao cấp tồn tại khá lâu dài đã làm cho xã hội trở nên trì trệ, một bộ phận lợi dụng chức quyền và những sơ hở của Nhà nước ngấm ngầm tích lũy làm giàu cho bản thân tạo ra khoảng cách không nhỏ so với tuyệt đại đa số dân cư còn lại khác.
Từ khi chuyển sang thời kỳ đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phân tầng xã hội bộc lộ ngày một rõ nét, sự phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng. Theo kết quả các cuộc khảo sát mức sống dân cư được tiến hành trên phạm vi cả nước thì khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa 20% số hộ có mức thu nhập cao nhất (hộ giàu nhất) với 20% số hộ có thu nhập thấp nhất (hộ nghèo nhất) có xu hướng tăng lên: năm 1995 là 7,0 lần; năm 1996 là 7,3 lần; năm 1999 là 7,6 lần; năm 2002 là 8,1 lần và năm 2004 là 8,34 lần, năm 2006 là 8,37 lần, năm 2008 là 8,93 lần, năm 2010 là 9,23 lần,’năm 2012 là 9,35 lần.
Thực tiễn cho thấy, kinh tế thị trường đã đem lại sự tăng trưởng khá nhanh và ổn định cho nền kinh tế, với tốc độ GDP tăng từ 6,9% năm 2001 lên 8,3% năm 2007. Mức sống của các tầng lớp dân cư trong những năm vừa qua ở cả thành thị và nông thôn, các vùng miền trên phạm vi cả nước tiếp tục được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người một tháng chung cả nước theo giá cả hiện hành có xu hướng tăng mạnh qua các năm; cụ thể, trong giai đoạn 2004 – 2006, thu nhập bình quân một người/tháng theo giá hiện hành tăng bình quân 14,6%/năm và giai đoạn 2002 – 2004 tăng 16,6%, cao hơn mức tăng 6%/năm của giai đoạn 1999 – 2001 và mức tăng 8,8%/năm của giai đoạn 1996 – 1999. Như vậy, thu nhập bình quân đầu người tăng khá qua các năm, điều đó thể hiện mức sống được nâng lên, đời sống của các tầng lớp dân cư, đặc biệt là tầng lớp nghèo đã được cải thiện và tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng, miền, khu vực thành thị và nông thôn đều giảm. Theo chuẩn nghèo mới của Chính phủ, tính theo giá cả hiện hành năm 2004 là 18,1%, đến năm 2006 giảm xuống còn 15,5%. Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực thành thị, nông thôn và các vùng, miền đều có xu hướng giảm hơn so với các năm trước. Thu nhập bình quân đầu người của các nhóm dân cư năm 2006 đều tăng khá hơn so với các năm trước, song nhóm có thu nhập thấp tăng rất chậm so với nhóm có thu nhập khá và giàu. Vì vậy, khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư có xu hướng tăng lên và vẫn còn có sự cách biệt khá xa giữa thành thị – nông thôn, giữa các vùng, miền và giữa các nhóm dân cư giàu – nghèo. Chênh lệnh giữa vùng có thu nhập bình quân đầu người cao nhất là Đông Nam Bộ, cao gấp 2,9 lần so với vùng có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất là vùng Tây Bắc, năm 2002 con số này là 2,5 lần, năm 2004 là 3,1 lần.
Phân phối thu nhập bình quân không đồng đều giữa các vùng và khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các vùng, các tầng lớp dân cư có xu hướng tăng lên qua các năm. Tuy nhiên, sự khác nhau phản ánh trong thu nhập giữa các nhóm dân cư là thể hiện sự tác động của những điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội đến phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo. Một điều cần lưu ý là, số liệu thu nhập bình quân đầu người do Tổng cục Thống kê thực hiện đã được điều chỉnh theo chênh lệch giá giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, do đó sự khác biệt này phản ánh mức độ phân tầng xã hội trên thực tế. Theo kết quả khảo sát mức sống của hộ gia đình năm 2006 do Tổng cục Thống kê thực hiện, chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người/tháng giữa nhóm hộ giàu nhất và nhóm hộ nghèo nhất có một khoảng cách lớn. So sánh 20% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 20% số hộ có thu nhập thấp nhất thì khoảng cách chêch lệch giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất là 8,4 lần. Theo kết quả điều tra từ năm 1990 đến nay, khoảng cách chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người/tháng giữa nhóm có thu nhập thấp nhất và nhóm có thu nhập cao nhất có xu hướng ngày càng tăng. Sự chênh lệch về thu nhập đang diễn ra khá phổ biến ở nước ta, nhưng còn ở mức độ cho phép, chưa trở thành mâu thuẫn về lợi ích và vẫn đang là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Phân tầng xã hội tiếp tục có chuyển biến tích cực thông qua số liệu chi tiêu. Mức chi tiêu bình quân đầu người/tháng của cả nước theo giá cả hiện hành có xu hướng tăng lên: năm 1993 là 110.400 đồng; năm 1996 là 195.300 đồng; năm 1998 là 246.100 đồng; năm 2002 là 293.700 đồng; năm 2004 là 396.800 đồng và năm 2006 là 511.000 đồng, trong đó chi tiêu cho đời sống đạt 460.000 đồng tăng 27,9% so với năm 2004, bình quân mỗi năm tăng 13,5% (giai đoạn 2002 – 2004 mỗi năm tăng 15,7%). Năm 2006, chi tiêu cho đời sống chiếm hơn 90% tổng chi tiêu, trong đó tỷ trọng chi tiêu cho ăn uống trong chi tiêu cho đời sống là một chỉ tiêu tốt để đánh giá mức sống cao hay thấp. Tỷ trọng này càng cao thì mức sống càng thấp và ngược lại. Việt Nam là một nước nghèo nên tỷ trọng này còn cao, nhưng đã có xu hướng giảm rõ rệt, từ 66% năm 1993 xuống còn 63% năm 1999; 57% năm 2002; 53,5% năm 2004 và 52,8% năm 2006. Tỷ trọng chi tiêu cho ăn uống ở thành thị là 48,2% trong khi ở nông thôn là 56,2%; nhóm các hộ giàu nhất là 45,8% và nhóm các hộ nghèo nhất là 65,2%. Năm 2006, chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người/tháng khu vực thành thị đạt 738.000 đồng gấp 2,06 lần so với khu vực nông thôn là 359.000 đồng. Vùng có mức chi tiêu đời sống cao nhất là Đông Nam Bộ (740.000 đồng) gấp 2,5 lần vùng có mức chi tiêu đời sống thấp nhất là Tây Bắc (296.300 đồng). Nếu so sánh mức chi tiêu cho đời sống giữa 20% hộ có mức chi tiêu cao nhất với 20% hộ có mức chi tiêu thấp nhất thì hệ số chênh lệch có xu hướng tăng qua các năm: năm 1999 là 4,2 lần; năm 2002 là 4,45 lần; năm 2004 là 4,45 lần và năm 2006 là 4,54 lần.
Khoảng cách chênh lệch về mức sống và phân hóa giàu nghèo còn được thể hiện qua số liệu chi tiêu cho đời sống gia đình. Mức chi tiêu những hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng ngoài ăn uống của nhóm hộ giàu nhất gấp 7,1 lần so với nhóm hộ nghèo nhất, trong đó chi về nhà ở, điện nước, vệ sinh gấp 8,8 lần; chi thiết bị và đồ dùng gia đình gấp 7,2 lần; chi y tế, chăm sóc sức khỏe gấp 3,9 lần; chi đi lại và bưu điện gấp 12,1 lần; chi giáo dục gấp 5,2 lần; chi cho các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí gấp 69,8 lần. Những hộ thuộc nhóm giàu nhất có điều kiện nhà ở, phương tiện đi lại, đồ dùng trong sinh hoạt tốt hơn, có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội chất lượng cao và có mức hưởng thụ văn hóa tinh thần, mức sống cao hơn so với nhóm hộ nghèo. Điều đó cho thấy, sự chênh lệch về mức chi tiêu giữa các nhóm đang có xu hướng tăng lên. Chi tiêu cho đời sống giữa hộ giàu nhất và hộ nghèo nhất có sự chênh lệch rất lớn. Khi còn nghèo, người dân thường dành phần lớn chi tiêu của hộ để bảo đảm nhu cầu ăn uống. Song, khi mức sống được cải thiện thì chi tiêu cho nhu cầu ăn uống của người dân tăng về số tuyệt đối, nhưng tỷ trọng trong chi tiêu chung sẽ giảm do các hộ gia đình đã có khả năng để chi nhiều hơn cho các nhu cầu khác, như: may mặc, nhà ở, đi lại, mua sắm đồ dùng, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, văn hóa, du lịch…
Như vậy, sự bất bình đẳng hiện nay ở Việt Nam có xu hướng phân hóa thành hai cực (tương phản) giàu – nghèo về mức sống (sự phân cực về mức sống). Đây là nhận định mới và tổng kết khái quát về xu hướng bất bình đẳng mức sống ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Hệ quả của sự phân cực này đã thúc đẩy sự phân tầng xã hội ở Việt Nam diễn ra với sự phân hóa sâu sắc về các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Bên cạnh sự xuất hiện và hình thành của “tầng lớp xã hội ưu trội” thì “tầng lớp xã hội yếu thế” và các nhóm xã hội có hành vi sai lệch xã hội, vi phạm pháp luật, tội phạm cũng có xu hướng gia tăng. Điều này để lại nhiều hệ quả tiêu cực đối với sự phát triển lành mạnh, an ninh, trật tự của xã hội.
Các chuyên gia kinh tế của các định chế tài chính lớn như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, hay Quỹ tiền tệ Quốc tế lại khuyến cáo Việt Nam về bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam có thể dễ dàng vượt qua mức USD 996, mức trung bình thấp, nhưng để vượt mức thu nhập bình quân USD 12.195 /người/năm là rất khó. Bởi lẽ, trong vòng 10 năm qua, Việt Nam đạt được mức tăng trưởng nhanh là nhờ khai thác tài nguyên dồi dào, lao động rẻ. Đương nhiên, khi sự khai thác đã đến ngưỡng, sẽ không còn tốc độ tăng trưởng như vậy nữa và sẽ mãi dậm chân trong mức tăng trưởng thấp mà không thoát ra được… Để thoát khỏi cái bẫy tăng trưởng trung bình này, các nhà hoạch định chính sách đã có chiến lược phát triển kinh tế, ít nhất là trong vòng 10 năm tới, hướng đến mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất lao động, năng lực cạnh tranh – là một hướng đi khác hẳn trước đây. Tuy nhiên, để triển khai chiến lược này là điều cực kỳ phức tạp.
Làm sao để tối ưu hóa các nguồn lực, trong đó quan trọng nhất là nguồn nhân lực?
Nền giáo dục còn bộn bề, ngổn ngang, với phương thức đào tạo chưa theo kịp yêu cầu phát triển, đào tạo kiểu quy trình ngược, siết đầu vào, nhưng lại lỏng đầu ra, làm cho nguồn nhân lực – sản phẩm của quy trình đào tạo này rất yếu kém về chất lượng; như vậy khó lòng có được đội ngũ từ quản lý tới lao động có chất lượng, để có thể đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức, đẩy mạnh tăng trưởng bền vững và xóa dần khoảng cách giàu nghèo…
Thu nhập bình quan người lao động: cấu trúc
Lực lượng lao động, số người có việc làm quý II năm 2022 tăng so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt lao động trong ngành dịch vụ tăng đáng kể so với quý trước. Thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động đều giảm so với quý trước và cùng kỳ năm trước. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý II năm 2022 là 51,6 triệu người, tăng hơn 0,4 triệu người so với quý trước và tăng gần 0,6 triệu người so với cùng kỳ năm trước. So với quý trước, lực lượng lao động ở cả hai khu vực nông thôn và thành thị đều tăng (tương ứng, tăng 0,3 triệu người và 0,1 triệu người), lực lượng lao động nữ tăng nhiều hơn so với lực lượng lao động nam (0,3 triệu lao động của nữ so với gần 0,2 triệu lao động của nam). So với cùng kỳ năm trước, lực lượng lao động tăng ở khu vực thành thị (tăng 0,6 triệu người) và giảm nhẹ ở nông thôn (0,06 triệu người). Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý II năm 2022 là 68,5%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với quý trước. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ là 62,6%, thấp hơn 12,2 điểm phần trăm so với nam (74,8%). Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khu vực thành thị là 66,1%, trong khi đó tỷ lệ này ở nông thôn là 70,1%. Xem xét theo nhóm tuổi, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn ở các nhóm tuổi rất trẻ và nhóm tuổi già, trong đó chênh lệch nhiều nhất được ghi nhận ở nhóm 55 tuổi trở lên (thành thị: 33,5%; nông thôn: 46,7%) và nhóm từ 15-24 tuổi (thành thị: 36,3%; nông thôn: 44,9%). Điều này cho thấy, người dân tại khu vực nông thôn gia nhập thị trường lao động sớm hơn và rời bỏ thị trường muộn hơn khá nhiều so với khu vực thành thị; đây là đặc điểm điển hình của thị trường lao động với cơ cấu lao động tham gia ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao. Trong tổng số 23,7 triệu người từ 15 tuổi trở lên không tham gia thị trường lao động (ngoài lực lượng lao động) của quý II năm 2022, có 12,7 triệu người trong độ tuổi lao động, tập trung nhiều nhất ở nhóm 15-19 tuổi (5,9 triệu người). Số người thiếu việc làm trong độ tuổi ở quý II năm 2022 là khoảng 881,8 nghìn người, giảm 447,1 nghìn người so với quý trước và giảm 263,1 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ở quý II năm 2022 là 1,96%, giảm 1,05 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,64 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị thấp hơn so với khu vực nông thôn (tương ứng là 1,37% và 2,32%). Như vậy, tình hình thiếu việc làm của người lao động đã được cải thiện đáng kể với tỷ lệ này giảm ở cả khu vực thành thị và nông thôn (tương ứng là 2,39% và 3,40% ở quý I năm 2022).
Thu nhập bình quân tháng của người lao động quý II là 6,6 triệu đồng, tăng 206 nghìn đồng so với quý trước và tăng 542 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước. Thu nhập bình quân tháng của lao động nam cao gấp 1,34 lần thu nhập bình quân tháng của lao động nữ (7,5 triệu đồng so với 5,6 triệu đồng). Thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị cao gấp 1,38 lần khu vực nông thôn (8,0 triệu đồng so với 5,8 triệu đồng). Quý II năm 2022, thu nhập của lao động làm việc ở cả ba khu vực kinh tế đều có mức tăng trưởng khá. Trong đó, lao động làm việc trong khu vực công nghiệp và xây dựng có tốc độ tăng thu nhập bình quân cao nhất trong ba khu vực kinh tế. So với cùng kỳ năm 2021, thu nhập bình quân tháng của lao động làm việc trong khu vực công nghiệp và xây dựng là 7,5 triệu đồng, tăng 11,5%, tăng tương ứng khoảng 774 nghìn đồng; lao động làm việc trong ngành dịch vụ có thu nhập bình quân là 7,8 triệu đồng, tăng 8,7%, tăng tương ứng khoảng 623 nghìn đồng. Lao động làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản có thu nhập bình quân là 3,8 triệu đồng, tăng 3,6%, tăng tương ứng khoảng 132 nghìn đồng. Một số ngành có tốc độ tăng trưởng khá: khai khoáng đạt mức 9,7 triệu đồng, tăng 17,1%, tương ứng tăng 1,4 triệu đồng so với cùng kỳ năm trước; công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 7,4 triệu đồng, tăng 12,4%, tương ứng tăng khoảng 818 nghìn đồng; sản xuất và phân phối điện đạt 9,6 triệu đồng, tăng 10,7%, tương ứng tăng 928 nghìn đồng; dịch vụ lưu trú ăn uống đạt 6,2 triệu đồng, tăng 10,2%, tương ứng tăng 572 nghìn đồng. Ngay cả ngành gặp nhiều khó khăn do sự biến động của giá xăng dầu như ngành Vận tải kho bãi cũng có mức tăng trưởng thu nhập khá, đạt mức 8,9 triệu đồng trong quý II năm 2022, tăng 4,2% so với quý trước và tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước.
Thu nhập sinh viên mới ra trường
Có thể thấy lực lượng lao động quan trọng nhất là lực lượng trong độ tuổi từ 18 – 25, sau khi trải qua những năm tháng học tập và rèn luyện tại các trường Đại học hoặc Cao đẳng, sinh viên sẽ phải đứng trước ngưỡng cửa của sự trưởng thành. Ngoài việc lựa chọn công việc tốt cho mình, các vấn đề về thu nhập cũng nhận được quan tâm sâu sắc. Nghị định 90/2019/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng từ ngày 01/01/2020 như sau:
- 4.729.400 đồng/tháng nếu doanh nghiệp ở vùng I.
- 4.194.400 đồng/tháng nếu doanh nghiệp ở vùng II.
- 3.670.100 đồng/tháng nếu doanh nghiệp ở vùng III.
- 3.284.900 đồng/tháng nếu doanh nghiệp ở vùng IV.
Dựa vào mức quy định trên, có thể thấy được mức lương trung bình của sinh viên mới ra trường sẽ rơi vào khoảng 3.284.900 đồng/tháng đến 4.729.400 đồng/tháng, tùy thuộc vào khu vực/ vùng miền làm việc, các thành phố lớn sẽ chi trả tiền lương cao hơn. Nhiều sinh viên khi mới ra trường luôn mặc định trong đầu rằng nếu bản thân sở hữu tấm bằng khá, giỏi sẽ đồng nghĩa với việc có được mức lương cao trong lĩnh vực đang theo đuổi. Trên thực tế, lý thuyết bạn học chỉ nằm trong bài vở vẫn còn rất mơ hồ, chưa có kinh nghiệm thực chiến nên các doanh nghiệp phải bỏ thời gian ra để đào tạo các bạn. Nguyên nhân dẫn đến những ảo tưởng về lương cao cho sinh viên mới ra trường được bắt nguồn từ những lý do sau đây:
- Sự tự tin thái quá về bằng cấp: Mặc dù tấm bằng Đại học chính là thành quả của 4 năm nỗ lực, nhưng những kiến thức bạn được giảng dạy chỉ là lý thuyết, muốn đi vào thực tiễn phải mất thêm một khoảng thời gian và quá trình rèn luyện.
- Thiếu trải nghiệm thực tế: Một trong những yếu tố chủ quan dẫn đến ảo tưởng về lương thưởng cao đó là thiếu trải nghiệm công việc. Tấm bằng Đại học không phải là thước đo để quyết định mức lương, doanh nghiệp chỉ quan tâm đến giá trị mà có thể đem lại cho họ.
- Nhu cầu đời sống cao: Khi còn là sinh viên, việc phụ thuộc vào trợ cấp của gia đình khiến sinh viên nghĩ rằng việc kiếm tiền là không mấy khó khăn. Thực tế lại hoàn toàn ngược lại, phải nỗ lực hơn rất nhiều trong công việc thì mới nhận được mức lương cao hơn.
- Yếu tố tác động từ thông tin bên ngoài: Các sinh viên mới ra trường thường có tâm lý nhẹ dạ cả tin vào một số doanh nghiệp hứa hẹn lương thưởng, trong khi con số thực lại không phải vậy.
Hiện nay, mức lương dành cho sinh viên mới ra trường ở công ty khác nhau, ngành nghề khác nhau cũng khác nhau, đa số nằm trong khoảng 4 – 6 triệu nhưng phổ biến nhất là 4 – 5 triệu/tháng, thậm chí một số người chỉ nhận 3 – 3,5 triệu/tháng. Một phần là do từng khu vực, phần là do bản thân ứng viên không hiểu rõ về các quy định, tự ti vào khả năng của mình, không biết đàm phán lương. Sự khác nhau ở mức lương dù tất cả đều là ứng viên mới ra trường do thành tích học tập, nghiên cứu và kinh nghiệm, trải nghiệm từ trong trường. Lý giải nguyên nhân khiến sinh viên mới ra trường thường được trả mức lương thấp hơn mong muốn, một đại diện doanh nghiệp cho rằng: “Thực trạng này nghe qua thì có vẻ thật buồn cho các bạn sinh viên. Nhưng nếu suy xét sâu xa hơn thì nó đáng buồn hơn cho các doanh nghiệp. Ở cơ quan tôi, hằng năm đều có rất đông sinh viên đến thực tập hoặc được tiếp nhận vào làm. Nhưng có đến 99% các bạn không có kỹ năng mềm. Khi chat với bạn bè, các em gõ như máy, nhưng khi đi vào công việc thực tế thì đánh máy một văn bản cũng sai chính tả la liệt, căn chỉnh loạn xạ… ngoài ra còn thiếu nghiêm túc trong công việc, ngoại ngữ kém… Tóm lại, các doanh nghiệp gần như phải đào tạo lại từ đầu thay vì kỳ vọng họ cống hiến được ngay. Thế nên mức lương khởi điểm thấp là điều dễ hiểu“.
Bên cạnh đó, trong một nghiên cứu do nhóm các nhà khoa học gồm TS. Trần Quang Tuyến, TS. Vũ Văn Hưởng và Nghiên cứu sinh Vũ Bích Ngọc, Trường Quốc tế, ĐH Quốc gia Hà Nội thực hiện cho thấy kết quả nghiên cứu từ một nhóm các chuyên gia đến từ Trường Quốc tế, ĐH Quốc gia Hà Nội cho thấy, tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp ra trường làm trái ngành là trên 24%. Trong đó, có nhiều ngành cử nhân phải làm trái ngành lên đến trên 60%; trong đó, tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp các ngành Kỹ thuật, Công nghệ, Kiến trúc và Xây dựng làm trái ngành là 31,6%; tỉ lệ này ở các ngành Nhân văn và Nghệ thuật là 63%; các ngành Khoa học tự nhiên, Toán và Công nghệ thông tin là 60,6%; các ngành Nông, Lâm, Ngư và Thú y là 67%. Còn với nhóm ngành Kinh doanh, Quản lý, tỉ lệ sinh viên làm trái ngành thấp nhất, chỉ 13,2%. Lao động tốt nghiệp ngành này có thể phù hợp với nhiều loại hình công việc khác nhau, do vậy tỉ lệ người đã tốt nghiệp ĐH làm trái ngành của nhóm ngành này thấp hơn đáng kể so với các ngành khác.
Theo TS. Trần Quang Tuyến, làm trái ngành là khi người lao động đảm nhận các công việc không phù hợp với lĩnh vực được đào tạo. Để tìm hiểu sâu hơn về sự khác biệt, nhóm nghiên cứu tập trung đo lường ở nhóm ngành Kinh doanh và Quản lý, bởi số lao động ĐH từ ngành này chiếm tỉ trọng lớn hiện nay (khoảng 28,6% năm 2018 và 29,5% năm 2020). Nhìn chung, nhóm người phải làm việc trái ngành có mức thu nhập trung bình thấp hơn nhóm làm đúng ngành. Mức lương trung bình của nhóm ngành Kinh doanh, Quản lý khi làm việc đúng ngành vào năm 2020 là 9,4 triệu đồng, còn trái ngành là 8 triệu đồng; con số tương ứng ở các năm 2019 lần lượt là 9,1 triệu đồng/7,6 triệu đồng; năm 2018 là 8,2 triệu/6,9 triệu đồng. “Số liệu của nghiên cứu này và báo cáo của các trường ĐH đưa ra có thể khác nhau do cách thức đo lường cũng như các mốc, độ tuổi khảo sát khác nhau. Các trường ĐH thường sẽ thống kê theo lao động trẻ, tức sinh viên sau vài năm ra trường. Còn thống kê của chúng tôi xét đối tượng từ 25 đến 60 tuổi”, TS Tuyến nói và cho hay, việc làm trái ngành có thể xuất phát từ cả phía cung và cầu lao động, do đó sẽ cần thêm các nghiên cứu về nhân tố tác động tới việc làm trái ngành.
Thị trường nghề
Làm trái ngành cũng là một yếu tố dẫn tới sự thiếu hụt về lao động kỹ năng, kìm hãm sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế trong tương lai, đồng thời, sẽ là khó khăn chính mà các doanh nghiệp đang phải đối mặt trong việc tuyển dụng và sử dụng lao động; nhu cầu phát triển kỹ năng cho người lao động đáp ứng tiềm năng phát triển kinh tế; đồng thời đưa ra một số giải pháp nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động để thúc đẩy việc làm có năng suất ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Lực lượng lao động của nước ta tăng khoảng 1,3 triệu người mỗi năm với tốc độ tăng bình quân khoảng 2,65%/năm; số lao động trong độ tuổi lao động chiếm gần 95% tổng lực lượng lao động và nhóm lao động trẻ (tuổi 15-34) chiếm tới 45%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng dần, do vậy năng lực chuyên môn kỹ thuật, trình độ kỹ năng nghề của người lao động được nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong và ngoài nước. Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối mặt với áp lực thiếu hụt lao động có kỹ năng cao ở các cấp độ; thị trường lao động trong nước và thế giới đòi hỏi người lao động phải luôn luôn nâng cao kỹ năng nghề để đáp ứng với yêu cầu thay đổi của công nghệ sản xuất hiện đại, đòi hỏi của thực tiễn. Trong khi đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có kỹ năng nghề cao còn thấp. Sức cạnh tranh về khả năng lao động còn quá thấp; năng suất lao động của Việt Nam không thể so với các nước phát triển như: Mỹ, Đức, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,… Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế do thiếu nhiều lao động lành nghề. Do sự hạn chế về chất lượng của lực lượng lao động có kỹ năng cao đã ảnh hưởng tới năng suất lao động. Theo số liệu thống kê, giai đoạn 2001-2010, năng suất lao động ở Việt Nam tăng bình quân hàng năm là 4,8%, tương ứng với tăng trưởng kinh tế (5,8% /năm) và cao hơn so với tăng trưởng việc làm trong cùng kỳ (chỉ đạt 2,2%/năm), cụ thể năng suất lao động đã tăng từ 7,5 triệu đồng/người lao động lên 11,1 triệu đồng/người lao động. Nhìn nhận một cách tổng quát, sự phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn vừa qua cho thấy những thay đổi về mặt cơ cấu kinh tế được phản ánh trong việc gia tăng tỷ trọng việc làm của ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP và việc làm. Tuy vậy, đặc trưng vẫn là sử dụng nhiều lao động có tay nghề thấp, thị trường lao động bị phân mảng, vẫn tồn tại khá lớn tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu lao động, người sử dụng lao động vẫn không thể tuyển đủ lao động có kỹ năng cao, hệ thống đào tạo cũng không thể theo kịp tốc độ thay đổi của cầu lao động.
Thực tế của việc sử dụng lao động có tay nghề thấp và tạo ra ít giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay vẫn chiếm tỷ trọng tương đối cao. Trong ngắn hạn, các nghề sử dụng lao động tay nghề và chi phí dịch vụ thấp giữ vị trí quan trọng, đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tạo cơ hội việc làm cho lao động trình độ thấp. Tuy nhiên, điều này sẽ không tiếp tục được kéo dài, với sự tác động mạnh mẽ của yêu cầu phát triển kinh tế và năng suất lao động, nhu cầu về lao động có kỹ năng cao sẽ tăng lên. Việc thiếu hụt công nhân kỹ thuật là điều được dự báo trước, do đó nếu sử dụng lao động giá rẻ không có trình độ kỹ thuật cao sẽ khó cải thiện năng suất lao động và được coi là “điểm nghẽn cản trở sự phát triển”. Và trong một tương lai gần, điều này sẽ trở thành vấn đề nghiêm trọng khi người sử dụng lao động không thể tuyển dụng được lao động có kỹ năng cần thiết, ảnh hưởng và kìm hãm sự phát triển kinh tế, giảm khả năng cạnh tranh của quốc gia cũng như ảnh hưởng tới mục tiêu việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm bền vững cho tất cả mọi người. Để trở thành một nền kinh tế công nghiệp, hiện đại, tốc độ GDP bình quân 7 – 8%/năm; tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP; giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP; giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tỉ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30 – 35% lao động xã hội.
Để nâng cao kỹ năng nghề cho lực lượng lao động hướng tới mục tiêu thúc đẩy việc làm có năng suất thực sự hiệu quả đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai của thị trường lao động, cần tập trung thực hiện hai bước:
- thực hiện đổi mới, phát triển dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng dạy nghề để “hình thành đội ngũ lao động có tay nghề cao, trước hết cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế trọng điểm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập quốc tế”; và
- triển khai thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ, nhằm “góp phần thay đổi cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động, nâng cao thu nhập, giảm nghèo vững chắc, đảm bảo an sinh xã hội, tiến tới phổ cập nghề cho người lao động”.
Luật giáo dục Việt Nam năm 1998, dạy nghề là một bộ phận thuộc giáo dục nghề nghiệp, bao gồm loại hình dạy nghề ngắn hạn (dưới 1 năm) và dạy nghề dài hạn (từ 1-3 năm). Hai loại hình này được thực hiện tại các trường dạy nghề, trường trung học và cao đẳng có dạy nghề. Ngoài ra, dạy nghề ngắn hạn còn được thực hiện tại các trung tâm dạy nghề. Từ khi Luật Dạy nghề có hiệu lực (từ 31/7/2007), hệ thống chính sách khuyến khích học nghề cũng được hoàn thiện và phát triển, đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong phát triển nghề nghiệp cho người lao động. Hai loại hình dạy nghề (ngắn hạn và dài hạn) được chuyển thành dạy nghề theo 3 cấp trình độ: cao đẳng nghề (CĐN), trung cấp nghề (TCN), sơ cấp nghề (SCN) và dạy nghề thường xuyên. Trong thời gian qua, hệ thống dạy nghề đã và đang thực hiện đổi mới khá mạnh mẽ, chuyển từ hệ thống dạy nghề với hai chương trình đào tạo (dài hạn và ngắn hạn) sang hệ thống dạy nghề với 3 cấp trình độ (sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề); chuyển dần từ đào tạo theo hướng cung sang hướng cầu của thị trường lao động. Số lượng học sinh học nghề và tốt nghiệp tăng lên hằng năm đã phần nào đáp ứng nhu cầu phát triển nghề nghiệp cho người lao động nói riêng và góp phần vào việc đáp ứng nhu cầu nhân lực lao động kỹ thuật trực tiếp cho sự phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, hệ thống dạy nghề đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT) vào học nghề còn rất thấp. Hệ thống dạy nghề vẫn còn thiếu một định hướng chiến lược phát triển nghề nghiệp cho người lao động, tiếp tục cần được củng cố về chính sách và thể chế.
Theo đó, các cơ sở dạy nghề đã phát triển theo quy hoạch rộng khắp trên toàn quốc, đa dạng về hình thức sở hữu và loại hình đào tạo. Số lượng cơ sở dạy nghề nói chung và cơ sở tư thục nói riêng tăng nhanh. Năm 2013, cả nước có 1339 cơ sở dạy nghề (CSDN), trong đó có: 162 trường cao đẳng nghề (chiếm 12,1%), 302 trường trung cấp nghề (22,6%) và 875 trung tâm dạy nghề (65,4%). Nhìn chung, mỗi tỉnh đã có ít nhất một trường nghề, một số huyện, cụm huyện đã có trường trung cấp nghề. Nếu tính cả các cơ sở khác có dạy nghề (bao gồm đại học, cao đẳng, trung tâm khác có dạy nghề) thì mạng lưới cơ sở dạy nghề cả nước năm 2013 có gần 2040 cơ sở, trong đó cơ sở dạy nghề công lập chiếm khoảng 60%. Đặc biệt, thực hiện Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, mạng lưới trung tâm dạy nghề cấp huyện đã được mở rộng. Năm 2013 có trên 430 trung tâm dạy nghề cấp huyện nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Tuy nhiên, việc phân bố mạng lưới cơ sở dạy nghề vẫn còn nhiều bất cập. Các trường, trung tâm dạy nghề chủ yếu tập trung ở các thành thị, các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm. Trong khi đó, vùng nông thôn, số trường, trung tâm dạy nghề rất ít ỏi. Đến nay còn trên 150 huyện chưa có trung tâm dạy nghề công lập cấp huyện, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân ở các vùng này được học nghề, đồng thời khó triển khai các chủ trương học tập suốt đời.
Trong giai đoạn 2007-2013, tổng số học sinh tốt nghiệp đào tạo nghề là hơn 7 triệu người. Trong đó, học sinh tốt nghiệp cao đẳng nghề và trung cấp nghề là 1,253 triệu người, tốt nghiệp Sơ cấp nghề là 2,019 triệu người và Dạy nghề thường xuyên (dưới 3 tháng) là 3,7 triệu người. Bình quân mỗi năm, hệ thống dạy nghề đào tạo được 1,168 triệu người trong cùng giai đoạn, bằng 2,8 lần so với giai đoạn trước (1978 – 2006). Nhìn chung, trong thời gian vừa qua, số lượng học sinh tốt nghiệp hằng năm mặc dù đã tăng song do cơ cấu tuyển sinh số học sinh tốt nghiệp hằng năm vẫn chủ yếu là đào tạo nghề ngắn hạn có trình độ sơ cấp và dạy nghề dưới 3 tháng không chứng chỉ (giai đoạn đoạn 2007 – 2013, cơ cấu học sinh tốt nghiệp theo trình độ cao đẳng, trung cấp nghề – sơ cấp nghề – dạy nghề dưới 3 tháng tương ứng là 17,9% – 28,8% – 53,29%). Điều này sẽ gây nên sự mất cân đối về trình độ và sự cải thiện chậm về chất lượng lực lượng lao động trong tương lai.
Đào tạo giáo dục nghề và đại học
Trước thời kỳ đổi mới, giáo dục đại học (GDĐH) nước ta được xây dựng dựa vào mô hình của Liên Xô cũ, theo đó phần lớn các trường đại học là các trường đơn ngành hoặc đơn lĩnh vực, quy trình đào tạo đại học thường thiết kế liền một mạch, 4 đến 6 năm, theo hướng chuyên ngành rất hẹp. Từ thập niên đổi mới đầu tiên, một số mô hình cơ sở GDĐH kiểu khác được xây dựng [Hiệp hội..,2017], tuy nhiên việc triển khai các mô hình đó đã nảy sinh nhiều vấn đề.
Trong báo cáo “Hội nhập quốc tế: một định hướng quan trọng trong đào tạo nghề”, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp Phạm Vũ Quốc Bình chia sẻ về định hướng hội nhập quốc tế trong giáo dục nghề nghiệp, gồm: hoàn thiện hành lang pháp lý thuận lợi để thu hút đầu tư; hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và các nước, các tổ chức quốc tế; tích cực tham gia các tổ chức, diễn đàn, hiệp hội khu vực, quốc tế về giáo dục nghề nghiệp và các cuộc thi kỹ năng nghề; tăng cường hợp tác giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam và nước ngoài; trao đổi giảng viên, chuyên gia quốc tế… Báo cáo “Đào tạo liên thông, liên kết giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp với các cơ sở giáo dục đại học – kinh nghiệm từ cơ sở giáo dục nghề nghiệp” của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cao Thắng Lê Đình Kha chia sẻ lý do phải đào tạo liên thông giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với giáo dục đại học, xuất phát từ đơn vị sử dụng lao động là nâng cao trình độ và kỹ năng cho người lao động cũng như nhu cầu học tập suốt đời của các cá nhân. Để nâng cao hiệu quả, ông Lê Đình Kha cho rằng cần đa dạng hóa hình thức học liên thông, bao gồm cả liên thông chính quy; các trường đại học nên công bố lộ trình tăng học phí; cần có đội ngũ hỗ trợ, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của người học và tư vấn hỗ trợ kịp thời nhằm hỗ trợ người học duy trì mục tiêu học tập; vận động doanh nghiệp hỗ trợ người học trong quá trình tham gia học liên thông.
Ở Hoa Kỳ có khoảng 4500 trường đại học và cao đẳng, chia làm 2 nhóm lớn, khoảng 2800 trường đại học bốn năm (four-year colleges) và khoảng 1700 trường đại học hai năm (two-year colleges). ”Đại học 4 năm” là thuật ngữ để gọi chung các trường có đào tạo bằng cử nhân (bachelor) trở lên.”Đại học 2 năm” là thuật ngữ để gọi chung các trường cao đẳng (junior college) hoặc cao đẳng cộng đồng (community college), đó là các trường cung cấp các chương trình học nghề sau trung học hoặc các chương trình chuyển tiếp (transfer) cấp các loại “associate degree” để có thể tiếp tục học ở các trường đại học bốn năm [Lâm Quang Thiệp,Bruce Johnstone, Philip Altbach, 2007]. Phần lớn đại học 4 năm ở Hoa Kỳ được tổ chức theo mô hình “university”, tức là trường đại học đa lĩnh vực, một mô hình trường đại học có hiệu quả cao nhất. Sở dĩ mô hình đại học đa lĩnh vực có hiệu quả cao nhất vì các lý do sau đây:
- Các đại học đa lĩnh vực sẽ đảm bảo đào tạo tốt các chương trình “giáo dục khai phóng” [Lâm Quang Thiệp,2018], xu hướng GDĐH chủ đạo ở Hoa Kỳ, vì chỉ trong các đại học đa lĩnh vực mới có đủ đội ngũ giáo sư, giảng viên có trình độ cao để giảng dạy tốt các chương trình giáo dục này;
- Các đại học đa lĩnh vực có ưu thế về nghiên cứu và phục vụ xã hội, vì ngày nay các đề tài nghiên cứu lớn đều là các đề tài có tính liên ngành, các hoạt động phục vụ xã hội cũng vậy;
- Đại học đa lĩnh vực bao gồm nhiều ngành đào tạo khác nhau dễ đối phó với sự biến động về nhu cầu của từng nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chính vì ưu thế của mô hình đại học đa lĩnh vực nên khi chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, nhiều nước đã chuyển từ trường đại học đơn ngành hoặc đơn lĩnh vực sang đại học đa lĩnh vực. Ở Liên bang Nga, phần lớn các đại học đơn ngành đơn lĩnh vực thời Liên Xô cũ với tên gọi “inxtitut” chuyển sang mô hình đa lĩnh vực và đặt lại tên là “universitet” hoặc “academia”. Ở Trung Quốc Đại học Bắc Kinh vốn bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội kiểu “universitet” của Liên Xô cũ, cũng như Đại học Thanh Hoa vốn là một đại học bách khoa với lĩnh vực kỹ thuật công nghiệp, đều đã mở bổ sung thêm nhiều lĩnh vực khác để trở thành các “university” đa lĩnh vực theo kiểu phương Tây [Lâm Quang Thiệp, 2018].
Mô hình thực tế của các đại học quốc gia và đại học vùng đã vô hiệu hóa hoàn toàn các ưu thế của mô hình đại học đa lĩnh vực. Chính vì sự kém hiệu quả của các mô hình đại học quốc gia và đại học vùng nên Ngân hàng Thế giới (WB) đã có một văn bản góp ý chính thức khi xây dựng Luật GDĐH 2018 đề nghị điều chỉnh các mô hình đó [The World Bank, 2018]. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một phương án nào có hiệu quả để điều chỉnh. Trước hết, các trường thành viên đều là các trường đơn ngành, đơn lĩnh vực, lại liên kết với nhau rất lỏng lẻo, hầu như hoàn toàn độc lập về đào tạo, nên ưu thế về việc nâng cao chất lượng đào tạo theo chương trình giáo dục khai phóng không thể hiện được, cũng vậy, trong lĩnh vực nghiên cứu, phục vụ xã hội và đáp ứng thị trường lao động, quan hệ lỏng lẻo giữa các trường thành viên rất khó tạo nên sự phối hợp để tăng hiệu quả. Văn bản của WB nhận xét về dự thảo Luật GDĐH còn đặc biệt lưu ý đến mô hình các đại học quốc gia. Trước hết họ nói đó là mô hình duy nhất độc đáo tại Việt Nam (“is unique to Vietnam”) và không thấy ở bất kỳ nước nào trên thế giới (“We have not come across this set up in any country in the world”). Nói theo ngôn ngữ thông thường, đó là một mô hình “không giống ai” trên thế giới. Theo họ, các nhược điểm đó là: “không tận dụng được hết ưu thế về tài năng, kiến thức, và tiềm lực hiện có bị phân tán trong một số lớn các cơ sở tách biệt. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng các cơ sở đại học phi tập trung hoạt động kiểu như các trường thành viên độc lập gắn kết yếu gặp thách thức lớn nhằm chuyển đổi và tăng cường hoạt động bởi vì mỗi trường thành viên đều có kế hoạch và ưu tiên của riêng mình, không nhất thiết gắn chặt với mục tiêu chung của đại học lớn. Sự thiếu tích hợp làm cho chúng không thể tạo nên một sự đồng nhất cốt lõi và một tình cảm chung về mục đích. Khi không có một tầm nhìn chung, nhiệm vụ thiết kế và thực hiện một dự án phát triển đổi mới cho toàn bộ trường đại học trở thành bất lực. Các cơ sở đại học phi tập trung có xu hướng trở thành không hiệu quả vì sự trùng lặp của việc cung cấp các khóa học và các cấu trúc hành chính. Các hoạt động trong giảng dạy và nghiên cứu vẫn được giữ trong nội bộ các trường và khoa riêng biệt. Những nỗ lực đa ngành bị cản trở. Các nguồn lực tài chính và khoa học không được chia sẻ rộng rải.” Có lẽ các nhận xét đó thể hiện khá đầy đủ nhược điểm của mô hình đại học hai cấp mà các chuyên gia đã nhiều lần phát biểu [Lâm Quang Thiệp, 2017,2018].
Hiện nay ở Việt Nam việc quản lý hệ thống các trường đại học, cao đẳng bị phân cắt, vì việc phân công quản lý giữa các bộ với nhau được thiết kế theo kiểu “cát cứ”. Chẳng hạn, hầu hết trường cao đẳng do Bộ Lao động Thương binh Xã hội quản lý, chỉ các cao đẳng sư phạm thuộc Bộ GD&ĐT. Theo thông lệ quốc tế, GDĐH thường được hiểu là giáo dục sau trung học (“post-secondary”), các trường đại học và cao đẳng phải cấu thành một hệ thống thống nhất, tương tác hỗ trợ nhau; trong khi ở Việt Nam, Luật GDĐH lại chỉ liên quan đến các trường đào tạo bậc đại học trở lên – “university education”, không phải “higher education”. Hơn nữa, cho đến nay hệ thống cao đẳng cộng đồng được tái thành lập và phát triển đã vài thập niên nhưng nhưng chương trình đào tạo chuyển tiếp chưa được nơi nào thiết kế nghiêm chỉnh, cả về phía Bộ GD&ĐT cũng như từ phía các trường cao đẳng cộng đồng và các trường đại học chuyên ngành liên quan, mặc dầu điều này đã được NQ14/NQ-CP nhắc đến.
Trong khi nhiều quốc gia theo đuổi việc xây dựng các đại học đẳng cấp thế giới, thì Hội nghị GDĐH khu vực châu Á – Thái Bình Dương tại Ma Cao tháng 9 năm 2008 đưa ra khuyến nghị đối với các quốc gia chưa thật giàu có là: “Tốt hơn hết, nhiều quốc gia có thể định vị trong một thị trường cạnh tranh toàn cầu bằng cách tạo dựng cho mình một “hệ thống đẳng cấp thế giới về GDĐH” hơn là tập trung phần lớn nguồn lực của mình để tạo nên một số ít cái gọi là trường đại học đẳng cấp thế giới”. Hệ thống đẳng cấp thế giới về GDĐH là “hệ thống nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội và sự đa dạng của nền học vấn – năng lực của sinh viên do kết quả của việc đại chúng hóa (GDĐH). Các trường đại học cần có các sứ mạng khác nhau và cần phục vụ nhiều loại nhóm người khác nhau có lợi ích liên quan với GDĐH. Hoạt động cơ bản của GDĐH vẫn là giảng dạy và học vấn, và trong một môi trường toàn cầu ngày càng phức tạp và biến động, sự phù hợp của các hoạt động của chúng đối với các cộng đồng địa phương sẽ trở nên hết sức quan trọng”[Conference Report, 2008]. Nói cách khác, đó là hệ thống GDĐH mạnh, đa dạng, phân tầng, đáp ứng có hiệu quả các yêu cầu khác nhau của sự phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu học tập của nhân dân.
Vấn đề và định hướng, đáp ứng nhu cầu xã hội vè lực lượng lao động
Không ít ý kiến của các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cho rằng hoạt động dạy nghề, trình độ chuyên môn nghề nghiệp của lao động Việt Nam nói chung và của công nhân Việt Nam nói riêng đều thua kém so với các nước khu vực và thế giới. “Theo Forbes, hơn 90% dòng tiền FDI vào Việt Nam chỉ tập trung trong các ngành sản xuất giản đơn: may mặc, chế biến lương thực – thực phẩm, lắp ráp linh kiện điện tử. Đây là những ngành có xu hướng sử dụng lao động tay nghề thấp, thậm chí chưa cần qua trường lớp đào tạo” – Tạp chí Kinh tế Sài gòn Online (Thesaigontimes.vn) trong bài “Không thể mãi dựa vào lao động giá rẻ để thu hút đầu tư” viết. Nếu nhận định nêu trên là xác thực thì có phải nguyên nhân khiến việc dạy nghề và thu hút người theo học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp ở nước ta trở nên èo uột là do “ông lớn” không mặn mà với người lao động được đào tạo trình độ cao.
Giáo dục hướng nghiệp (nghề nghiệp) trong trường phổ thông có mục đích chung là hình thành khả năng tự chủ trong việc lựa chọn nghề của học sinh trên cơ sở của sự phù hợp giữa năng lực, hứng thú sở thích cá nhân với nhu cầu sử dụng lao động trong các hoạt động đa dạng của đời sống xã hội. Thực hiện được mục đích này, công tác giáo dục hướng nghiệp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả lao động xã hội và làm tốt công tác phân luồng học sinh phổ thông đi học giáo dục nghề nghiệp. Công tác hướng nghiệp là một hệ thống những biện pháp tâm lý-giáo dục nhằm đánh giá toàn bộ năng lực thể chất và trí tuệ của thanh thiếu niên, đối chiếu với các năng lực đó với những yêu cầu do nghề nghiệp đặt ra đối với người lao động, có tính đến nhu cầu nhân lực của địa phương và xã hội, trên cơ sở đó người làm công tác hướng nghiệp sẽ có những tư vấn, lời khuyên về chọn nghề, chọn ngành có căn cứ khoa học, loại bỏ những trường hợp may rủi, thiếu chín chắn giúp định hướng học sinh chọn đúng nghề nghiệp theo năng lực của bản thân. Công tác giáo dục hướng nghiệp, định hướng phân luồng học sinh phổ thông trong nhà trường phổ thông có vai trò quan trọng, là một hoạt động không thể thiếu được ở các trường phổ thông nhằm giúp học sinh nâng cao sự hiểu biết về nghề nghiệp và chính bản thân học sinh để có thể định hướng đúng đắn và đưa ra quyết định chọn ngành, chọn nghề nghiệp phù hợp. Trong những năm qua, công tác giáo dục hướng nghiệp, phân luồng học sinh trong nhà trường phổ thông đã được sự quan tâm, bước đầu đã có sự phối hợp giữa nhà trường, doanh nghiệp, chuyên gia trong tư vấn hướng nghiệp cho học sinh góp phần tạo sự chuyển biến trong nhận thức của người học, gia đình và xã hội đối với việc chọn nghề, chọn ngành, huy động ngày càng nhiều số lượng học sinh sau phổ thông tham gia thị trường lao động.
Trong hơn 30 năm qua việc dạy nghề được giao cho nhiều đơn vị như Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quản lý. Từ năm 2017 đến nay Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chính thức quản lý hệ thống trường trung cấp, cao đẳng, trung tâm dạy nghề toàn quốc (trừ các trường trung cấp, cao đẳng sư phạm vẫn do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý). Đây cũng là thời điểm Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức giải thể Vụ Giáo dục chuyên nghiệp. Hiện nay, quy mô cơ cấu nghề đào tạo được mở dần theo nhu cầu thực tế của doanh nghiệp với danh mục nghề của gần 400 nghề đào tạo ở trình độ cao đằng và khoảng 470 nghề đào tạo ở trình độ trung cấp. Các cơ sở dạy nghề đã mở thêm nhiều ngành nghề đạo tạo mới mà thị trường cần. Cùng với việc đào tạo các nghề phục vụ cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, các cơ sở dạy nghề đã đào tạo các nghề phục vụ cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và giải quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, hiện nay nhiều trường nghề vẫn tập trung tuyển sinh và đào tạo ngắn hạn và ở những ngành nghề có chi phí thấp như kế toán, tài chính, lái xe, dịch vụ, .v.v…Việc chuyển từ đào tạo nghề từ năng lực sẵn có của cơ sở dạy nghề sang đáp ứng nhu cầu xã hội và thị trường lao động còn chậm. Đặc biệt, sự tham gia của doanh nghiệp vào dạy nghề còn hạn chế. Bên cạnh đó, nhiều trường kỹ thuật đang gặp khó khăn trong tuyển sinh đối với các nghề nặng nhọc độc hại nhưng thị trường lao động có nhu cầu, như: nghề hàn, cắt gọt kim loại, nề, các nghề thuộc nhóm nghề mỏ hầm lò,… Nếu không có ưu đãi thì cơ cấu nguồn nhân lực qua đào tạo nghề sẽ mất cân đối nghiêm trọng, nhiều nghề khủng hoảng thừa, nhiều nghề khủng hoảng thiếu.
Cơ cấu học sinh học nghề theo trình độ còn hạn chế, mới chỉ tập trung vào trình độ Sơ cấp nghề và Dạy nghề dưới 3 tháng, trong khi tỷ lệ học sinh học ở trình độ Cao đẳng nghề và Trung cấp nghề rất thấp. Nguyên nhân chủ yếu ở đây là do nhận thức của người dân không muốn học nghề, học sinh tốt nghiệp THPT phần lớn có xu hướng đi học đại học hay cao đẳng chuyên nghiệp, các trường nghề gặp khó khăn trong tuyển sinh ở trình độ cao đẳng nghề và trung cấp nghề.
Nhìn chung, theo đánh giá của các doanh nghiệp, kỹ năng nghề của học sinh tốt nghiệp các cơ sở dạy nghề đã được nâng lên với 80 – 85% số lao động qua đào tạo nghề được sử dụng đúng trình độ đào tạo; 30% có kỹ năng nghề từ khá trở lên. Ở một số nghề (nghề hàn, dịch vụ nhà hàng, nấu ăn, thủy thủ tàu biển, thuyền trưởng và một số nghề thuộc lĩnh vực viễn thông…), kỹ năng nghề của lao động Việt Nam đã đạt chuẩn quốc tế. Lao động qua đào tạo nghề tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và đảm nhận được các vị trí công việc phức tạp mà trước đây phải do chuyên gia nước ngoài thực hiện; khoảng 70% học sinh tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi ra trường, ở một số nghề và một số cơ sở dạy nghề tỷ lệ này đạt trên 90%. Theo kết quả khảo sát của 101 trường nghề (năm 2011), mức lương khởi điểm bình quân cho học viên sau khi tốt nghiệp đạt từ khoảng 3 đến 3,5 triệu đồng/tháng. Mức lương có sự chênh lệch ở các nghề đào tạo, cụ thể, nhóm nghề kỹ thuật có lương bình quân cao hơn, đạt khoảng 3,5 triệu đồng/tháng. Các nghề dịch vụ như khách sạn, nhà hàng, lương bình quân thấp, chỉ ở mức 2,2 triệu đồng/tháng. Mức lương khiêm tốn này cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến các em học sinh không mặn mà với học nghề sau khi tốt nghiệp THPT.
Khoản 7, điều 4, Nghị định 127 quy định trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Ban hành chuẩn quốc gia đối với cơ sở giáo dục thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ”. Điều này có nghĩa là Bộ Giáo dục và Đào tạo không được ban hành “chuẩn quốc gia đối với cơ sở giáo dục” không thuộc phạm vi quản lý nhà nước của mình. Vậy ngoài các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các trường còn lại thuộc khối công an, quốc phòng, các trường đại học do các bộ, ngành, địa phương, tổ chức chính trị xã hội “chủ quản” có thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo – không những thế, gần đây xuất hiện một số kiến nghị cho phép các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được tổ chức trung tâm giáo dục thường xuyên để dạy kiến thức văn hóa trung học phổ thông cho học viên học nghề… Với các điều luật không rõ ràng, thậm chí là “bó chân bó tay” Bộ Giáo dục và Đào tạo trong quản lý nhà nước về giáo dục, với cách quản lý chồng chéo như vậy, chất lượng đào tạo nghề của Việt Nam – ít nhất trong vòng 10 – 20 năm qua là như thế nào?
Kết luận
Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng lao động qua đào tạo nghề làm trái ngành nghề, trình độ đào tạo. Theo số liệu Điều tra Lao động – Việc làm Quý 4/2013 của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong số những người có trình độ cao đẳng nghề, trung cấp nghề và sơ cấp nghề, có 280 nghìn người (chiếm 9,8%) đang làm các công việc giản đơn và 88 nghìn người (chiếm 3,1%) bị thất nghiệp. Về chất lượng, nhìn chung, kỹ năng nghề và năng lực nghề nghiệp của lao động Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn so với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Điều này phản ánh sự mất cân đối giữa đào tạo và sử dụng lao động qua đào tạo nói chung và qua đào tạo nghề nói riêng hiện nay…
Là sự khập khiễng giữa kỹ năng của lao động qua đào tạo nghề và yêu cầu của thị trường, cũng như thiếu hụt trình độ chuyên môn, kỹ năng mềm cần thiết và đặc biệt, khả năng làm việc theo nhóm…
</>